Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

30 NĂM

Nó và Thằng Hội đi họp lớp.
Đây là lớp chúng học trước khi gia nhập KT26
Lớp lái 8513









Nó bắt gặp những cảm xúc với Kt26 ở Đà Nẵng, Vũng Tàu...
Những người bạn gần 30 năm mới gặp lại







 Chúng ôn lại kỷ niệm. Trong những kỷ niệm ấy có cả KT26.






Lại quậy, lại hát..

Hát karaoke bằng điện thoại ( Từ phải qua: Ngọc Lân - Lưu - Thanh- Minh)

Hải Linh và Ngọc Anh

Cao Cường và Dũng

Từ trái qua: Tuấn Anh - Linh Sơn - Hải Linh - Lưu - Dũng - Hội 

Từ trái qua: Ngọc Anh- Nhơn Nghĩa - Hải Linh - Lưu - Hội - Dũng - Thái


Hội già và Nó từng buồn vì phải chuyển lớp nhưng bây giờ lại vui vì chúng có 2 lớp.

Hồi mới vào trường chúng là đôi bạn thân.


Thứ Hai, 10 tháng 8, 2015

Để biết là mình không biết...



Phan Đình Diệu


GS.TSKH.

Chưa bao giờ việc học được toàn xã hội chúng ta quan tâm như mấy năm vừa qua. Ta đã bàn nhiều về những điều mà xã hội phải lo cho người học, nhưng còn bản thân người học phải lo thế nào cho việc học của chính mình thì có lẽ còn ít được bàn tới. Trong một đời người thì việc học ở nhà trường có thầy có lớp nhiều lắm cũng khoảng mươi, mười lăm năm, còn ngoài ra để học suốt đời thì chủ yếu là tự học.
Học là để hiểu biết. Học có thầy có lớp thì sẽ thu được những hiểu biết mà người khác nghĩ là mình cần được biết. Tự học thì tức là tự mình đi tìm những gì mà mình thấy là cần biết. Cho nên, tự học đòi hỏi tính chủ động, tự mình phải biết là mình biết gì, chưa biết gì và muốn biết gì, rồi mới tìm học cái mà mình muốn biết đó.
Từ ngàn xưa, theo sách Luận ngữ, Khổng Tử đã dạy học trò: "Việc chi mình biết, nhận là biết; việc chi mình không biết, nhận là không biết; ấy là biết vậy".
Lời dạy này tôi được học từ thuở còn bé, nhưng càng lớn lên, càng được học nhiều, tôi càng cảm thấy thực hiện được lời dạy tưởng như đơn giản ấy mới khó lắm thay! Khi còn cắp sách đến trường thì chẳng phải băn khoăn, cái gì cũng coi là chưa biết, nghe thầy dạy mà biết; nhưng khi phải học mà không còn sự dạy bảo của thầy, một mình với sách vở, với tài liệu, thì trước cái mênh mông của tri thức, nhiều khi mình không biết nên bắt đầu từ đâu, nên xoay xở thế nào.
Thậm chí, ngay khi đã định hướng được chủ đề mà mình muốn học, nên đọc sách gì, học theo cách nào, không phải lúc nào cũng dễ xác định ngay được. Cũng vẫn là những câu hỏi tưởng như đơn giản: biết gì, không biết gì, muốn biết gì, mà tình huống mỗi lúc một khác, không ít khi dẫn mình lạc lối.
Tôi thường gặp tình huống: khi học một quyển sách, đọc từ đầu đến cuối tưởng rằng mình đã hiểu cả, nhưng rồi lần sau đọc lại mới phát hiện ra rằng mình đã hiểu sai cả, và điều đó không phải chỉ xảy ra một lần. Kinh nghiệm đó lặp đi lặp lại với sách này rồi sách khác dạy cho tôi một ý thức cảnh giác với những gì mà mình tưởng là đã hiểu. Cho nên, phân biệt cho được cái biết và cái chưa biết, cái hiểu và cái chưa hiểu quả thực không dễ.
Vậy, hiểu là thế nào nhỉ? Tôi nghĩ rằng hiểu phải là nắm bắt được cái cốt lõi bản chất của một tri thức, hay như người ta thường nói, cái hạt nhân "chân lý" chứa đựng trong tri thức, thậm chí cả vẻ đẹp của tri thức đó. Khi đọc một quyển sách, thoạt đầu ta tiếp xúc với câu chữ, với ngôn ngữ, rồi với các lập luận từ câu này sang câu khác. Ta nghĩ rằng ta đã hiểu là vì các câu chữ rõ ràng, lập luận hợp logic... Nhưng lần sau ta nhận ra ta đã hiểu sai, là vì bản chất của tri thức thường nằm đằng sau, ẩn bên trong cái vỏ hình thức của những ngôn ngữ và lập luận đó. Còn vẻ đẹp của tri thức thì họa hoằn lắm ta mới phát hiện được qua hình bóng của những ánh chớp tư tưởng đã từng xuất hiện ở những giây phút thần kỳ nào đó của sự sáng tạo, mà chỉ những cảm thụ đặc biệt nào đó mới phát hiện ra được.
Cho nên, đọc sách mà muốn hiểu được sâu sắc một tri thức thì thường phải tìm lại được quá trình sáng tạo nên tri thức đó, mà ta nhớ rằng cách trình bày một tài liệu (khoa học) thường đòi hỏi tuân theo một logic diễn dịch (hình thức), gần như theo con đường ngược lại với logic của quá trình sáng tạo!
Trên đây là nói về sự hiểu và không hiểu một tri thức mà đối với nó có một cách hiểu đúng duy nhất. Nhưng ngày nay, nhận thức của con người càng ngày càng động chạm đến những vấn đề phức tạp, khó có một tri thức nào về những vấn đề như vậy có thể được xem là duy nhất đúng, thì cái hiểu và không hiểu lại càng khó phân biệt hơn nhiều.
Khoa học, trước yêu cầu nhận thức cái phong phú, đa dạng và phức tạp đó của thiên nhiên và cuộc sống, cũng không còn tự đặt cho mình mục tiêu phát hiện các "chân lý" phổ biến nữa, mà trở thành "khiêm tốn" hơn, khoa học xem mục đích của mình là tìm kiếm các cách "giải quyết vấn đề", các câu trả lời cho những vấn đề mà con người gặp phải trong cuộc sống của mình. Cuộc sống luôn luôn đặt ra các câu hỏi về thiên nhiên, về vũ trụ, về thế giới, về sự sống, về kinh tế, về xã hội, về văn hóa, v.v..., con người tùy trình độ của từng thời đại mà có những câu trả lời khác nhau, có thể không tuyệt đối đúng nhưng phù hợp với nhận thức của thời đại và giúp con người có những cách hành xử thích hợp với thời đại mình.
Theo nhà khoa học nổi tiếng Louis Pasteur, khoa học cứ bằng cách tìm kiếm câu trả lời cho hàng loạt những câu hỏi kế tiếp như vậy mà đạt dần đến những vấn đề cốt tủy của tự nhiên. Từ những quan niệm thô sơ thời Aristote, Democrite đến cơ học Newton, rồi từ Newton đến thuyết tương đối Einstein và vật lý lượng tử của thời đại chúng ta, những câu hỏi về vũ trụ và vật chất cứ liên tiếp có được những câu trả lời khác nhau, cái "đúng" của từng thời dẫu không là đúng thật vẫn giúp con người thúc đẩy cuộc sống tiến lên.
Cũng như vậy, vấn đề "công bằng" xã hội đã được đặt ra từ thời cổ Hy Lạp, rồi đến thời cách mạng dân chủ tư sản, qua thời cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu thế kỷ 20, và đến nay nó vẫn là một vấn đề cơ bản được tranh luận cho một mô hình xã hội ở thế kỷ 21, có thể có một định nghĩa "đúng" cho khái niệm đó hay không vẫn còn là một câu hỏi. Toán học, một ngành khoa học thuần lý, có tự chứng minh được một định lý khá thú vị (định lý Tarski): "Khái niệm "đúng" toán học là không thể định nghĩa được trong toán học".
Như vậy, trong môi trường mà cái đúng và không đúng của tri thức không được phân biệt rạch ròi, thì vấn đề hiểu, không hiểu cũng cần được đặt ra một cách uyển chuyển hơn. Thường gặp nhất là về cùng một vấn đề có thể có nhiều lý thuyết khác nhau, nhiều cách giải đáp khác nhau, mình chỉ biết một cách rồi xem cách đó là duy nhất đúng, thì đó là biết mà là không biết, hay nói đúng hơn, là không biết là mình không biết.
Trong những trường hợp như vậy, để khắc phục cái "không biết" là mình không biết thì cách tốt nhất là mở rộng các cuộc thảo luận và tranh luận, để nhiều cái biết khác nhau được phát biểu, đua tranh với nhau, rồi qua chọn lựa mà tìm cho mình cái biết thích hợp nhất (chứ chưa hẳn đúng nhất), và tạm bằng lòng với cái biết tương đối đó. Cho nên, để biết là mình không biết trong môi trường mới, phức tạp hiện nay, thì điều cần thiết là biết lắng nghe, chấp nhận việc tranh luận giữa nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề.
Biết mình không biết là khởi đầu của việc học và tự học, nó cũng là khởi đầu của mọi sáng tạo, đặc biệt là sáng tạo khoa học. Cho đến nay, khoa học đã đạt được rất nhiều thành tựu rực rỡ. Nhưng, những câu hỏi chưa có trả lời đặt ra cho thế kỷ mới cũng càng ngày càng nhiều. Hy vọng rằng với tinh thần "biết là còn nhiều điều mình chưa biết" sẽ giúp cho chúng ta thêm năng lực sáng tạo để tìm được câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi đó.


Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2015

GÕ CỬA NỀN KINH TẾ DUY TÂM

Tác giả: Ngô Tự Lập
Năm 1997, khi cơn bão tài chính làm rung chuyển hàng loạt những nền kinh tế Đông Á từng được coi là hình mẫu "thần kỳ" của sự phát triển, người ta đua nhau lên án liên minh mờ ám giữa quyền lực chính trị và quyền lực tài chính. Thế rồi, trong khi các nhà lãnh đạo của các quốc gia lâm nạn giảm bớt volume về cái gọi là "giá trị châu Á" để kết tội các nhà đầu cơ tài chính và toàn cầu hoá, thì ở phương Tây người ta lại tăng âm lượng về các giá trị dân chủ. Người ta cho rằng chính sự bảo trợ từ phía nhà nước đã khiến cho hoạt động của hệ thống ngân hàng bị bóp méo, điều sẽ dẫn đến sự biến dạng và cuối cùng là sự đổ vỡ không tránh khỏi của nền tài chính. Những bài học này được các chuyên gia kinh tế của World Bank rao giảng khắp nơi cùng với những khoản cho vay mà điều kiện ngặt nghèo khiến nhiều quốc gia phẫn nộ.
Khi các tập đoàn khổng lồ Enron, Kmart, Global Crossing, Worldcom... sụp đổ, người ta lại lên án sự cấu kết không minh bạch của các công ty kiểm toán với giới kinh doanh. Vị công tố viên hăng hái nhất không phải ai khác mà chính là tổng thống đương nhiệm của siêu cường duy nhất hiện nay, ông George W. Bush . "Đừng làm trò gian lận với các con số" - tổng thống Hoa Kỳ phát biểu như vậy và ông đề nghị Bộ Tư pháp thẳng tay với bất cứ công ty nào có hành vi tham nhũng hoặc lừa đảo. Trong một buổi vận động gây quỹ cho đảng Cộng Hoà, ông chỉ tên đích danh Worldcom và cam kết rằng ông sẽ không nương tay với những hành vi quản lý tài chính không minh bạch, rằng ông sẽ ủng hộ những biện pháp quản lý kế toán chặt chẽ hơn, trong đó có việc thành lập một cơ quan kiểm soát mới.
Mối liên minh mờ ám giữa quyền lực chính trị và quyền lực tài chính, sự câu kết không minh bạch giữa các công ty kiểm toán với giới kinh doanh là có thật, là rất đáng lên án. Nhưng tôi không cho rằng những biện pháp, cho dù thông minh và quyết đoán, của Worldbank hay tổng thống Bush là đủ để giải quyết tận gốc vấn đề. Đơn giản vì đó chỉ là những giải pháp tình thế, trong khi những hiện tượng trên hoàn toàn không phải là riêng lẻ hoặc ngẫu nhiên. Nếu ngược dòng lịch sử, ta có thể thấy rằng cuộc khủng hoảng Đông Á chỉ là sự nối tiếp của Mexico, và đến lượt mình, nó lại được nối tiếp bởi Argentina, trường hợp mà theo tôi sẽ không phải là cuối cùng trong danh sách. Sự sụp đổ của các công ty không lồ cũng vậy. Trước Enron là Daewoo, Hanbo và các tập đoàn tài chính Nhật Bản. Còn sau Worldcom chắc chắn cũng chẳng thiếu các "đại gia".
Điều chúng ta quan tâm ở đây mối liên hệ giữa các hiện tượng và nguyên nhân sâu xa của nó.  Nguyên nhân sâu xa ấy, theo tôi, chính là sự thay đổi về chất của nền kinh tế nhân loại: sự chuyển từ nền kinh tế dựa trên những yếu tố và thước đo vật chất sang một nền kinh tế dựa trên những yếu tố và thức đo tinh thần, nói cách khác, từ nền kinh tế duy vật sang một nền kinh tế duy tâm.
Để cho dễ hiểu, tôi xin bắt đầu từ một khái niệm cơ sở: khái niệm về giá trị. Kinh tế học, nói một cách vắn tắt, là môn khoa học nghiên cứu các quy luật hình thành, lưu chuyển và thay đổi của các giá trị, còn nền kinh tế là tập hợp những cơ sở vật chất và xã hội ở một trình độ phát triển nhất định có nhiệm vụ tạo ra, thay đổi và dịch chuyển các giá trị ấy. Nhưng để tạo ra, thay đổi và dịch chuyển các giá trị, cũng như để nghiên cứu các quy luật hình thành, lưu chuyển và thay đổi của chúng, người ta phải dựa trên một thước đo. Nếu không có thước đo, chúng ta sẽ không thể xét đoán được các hiện tượng và sự vật, bởi lẽ chúng ta không thể lượng hoá được sự tăng giảm hay mất đi cũng như sự duy trì và lưu chuyển của nó. Không phải ngầu nhiên mà Adam Smith đã dành nhiều trang ngay trong phần đầu  cuốn The Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia) nổi tiếng để nói về giá trị. Sự thay đổi của thước đo giá trị phản ánh sự thay đổi bản chất của nền kinh tế tế giới. Nói rộng ra, lịch sử phát triển của văn minh nhân loại cũng là lịch sử thay đổi của những thước đo và phương pháp đo lường.
Chúng ta đều biết rằng kể từ buổi bình minh của lịch sử, nền kinh tế nhân loại đã tiến hoá dần khỏi trạng thái sơ khai, tự cung tự cấp bằng sự gia tăng phân công lao động. Ngay trong giai đoạn đầu tiên của sự phát triển, người ta đã phải tiến hành trao đổi. Con người không chỉ và không thể sống chỉ bằng lao động của mình. Sự trao đổi ban đầu được thực hiện trực tiếp, vật đổi vật, chẳng hạn cái rìu đổi lấy con cừu, như trong ví dụ kinh điển của Marx. Khi trao đổi như vậy, người ta ước lượng giá trị của vật đem trao đổi qua những đặc tính rất vật lý trực quan, cụ thể, hữu hình của vật. Về bản chất, có thể nói rằng trong truờng hợp này thước đo giá trị chính là vật đem trao đổi.
Sự gia tăng các hoạt động kinh tế khiến cho các loại đồ vật được đem trao đổi ngày càng đa dạng, số lượng đồ vật trao đổi và khoảng cách của hoạt động này cũng ngày một lớn. Sự trao đổi trực tiếp ngày càng bất tiện. Bây giờ, thay vì trao đổi trực tiếp các vật, người ta sử dụng một vật trung gian, được coi là ngang giá, ví dụ người ta có thể không đổi cái rìu lấy con cừu ngay mà người ta đổi lấy một cái sừng hươu, rồi cái sừng hươu lại cho phép họ đổi lầy con cừu hay bất cứ đồ vật được coi là ngang giá nào khác. Như vậy, những thước đo giá trị theo nghĩa đích thực của chúng đã xuất hiện: từ nay giá trị của đồ vật bắt đầu được ước lượng một cách gián tiếp, thông qua việc quy chiếu đến giá trị một vật khác.
Do những đặc tính của chúng, kim loại, đặc biệt là vàng, dần dần được chọn sử dụng rộng rãi làm vật ngang giá. Đó chính là sự ra đời của loại tiền đầu tiên - tiền vàng (hoặc các loại kim loại quý khác). Sự ra đời của tiền đồng nghĩa với sự trưởng thành của thương mại, đồng thời cũng đánh dấu một bước tiếp theo của xu hướng tượng trưng hoá các giá trị vật chất. Kể từ đó, giá trị của mọi thứ, bất luận chúng có nguồn gốc, bản chất và công dụng gì, đều được quy về những đơn vị giá trị của vàng.
Chẳng bao lâu, tiền giấy xuất hiện. Và nếu như ban đầu tiền giấy được đảm bảo bằng vàng, thì về sau nó chỉ còn là những tờ giấy được quy ước về giá trị mà thôi. Đến khi đó, tiền giấy, với tư cách là thước đo giá trị, đã trở nên khá xa các đặc tính vật chất của hàng hoá. Nhưng đến khi xuất hiện thị trường chứng khoán thì ngay cả cái đồng tiền bằng giấy kia cũng biến mất, nhường chỗ một thứ tiền ảo, thực ra chỉ là những ký hiệu, những thoả thuận mà thôi. Như vậy, trong thế giới hiện đại thước đo giá trị, và chính giá trị nữa, đã thoát ly khỏi những đặc tính hữu hình của hàng hoá và chủ yếu dựa vào những yếu tố tinh thần: nó đã bị duy tâm hoá. Thông qua thị trường chứng khoán, người ta tiến hành những khoản đầu tư dựa trên lòng tin, chứ không phải bằng tiền, bằng vàng, hay các loại vật chất khác. Chỉ bằng một cam kết trên giấy, hay thậm chí trên internet, người ta có thể hoàn thành một phi vụ thương mại, để rồi sử dụng kết quả của nó vào một phi vụ khác. Quá trình này có thể được kéo dài bất tận và nhân số vốn lưu chuyển lên nhiều lần trong khi thậm chí chưa có khoản tiền nào được giao trên thực tế. Tài sản của các công ty, các các nhân và các quốc gia cũng được đo bằng giá trị các cổ phiếu mà giá trị của nó không ai có thể biết chắc. Một ông chủ có thể chỉ vì một lời đồn mà mất phần lớn tài sản. Một quốc gia đang dư dật chỉ sau một đêm có thể rơi vào tình cảnh khốn đốn. Vậy mà nhà xưởng, đường xá, tàu bè, con người và chính quốc gia vẫn thế. Bây giờ không một nhà kinh doanh nào, không một quốc gia nào biết rõ mình có bao nhiêu tài sản. Điều này giải thích vì sao các công ty kiểm toán đã hoàn toàn bất lực: họ vẫn tiếp tục tính toán với những thuớc đo cũ kỹ, vẫn vật lộn với những cuốn sổ thu chi, xuất nhập, thực ra đang lừa dối họ. Tôi tin rằng sự lạc hậu là điều đáng trách nhất của họ, còn sự cấu kết với giới kinh doanh chỉ là hành vi đen tối của một phần nhỏ trong số họ mà thôi.
Những hiện tượng này thực ra không phải hoàn toàn mới. Cái gọi là nền kinh tế bong bóng, chẳng hạn, thực ra cũng chỉ là một cách nhìn chưa hoàn chỉnh về nền kinh tế mới - tôi xin gọi là nền kinh tế duy tâm, tức nền kinh tế phụ thuộc vào những yếu tố tinh thần của con người (xin chớ nhầm với mê tín dị đoan). Kinh tế bong bóng không phải là hiện tượng thuần tuý tiêu cực nhiều người quan niệm. Ngược lại, nó là nhân tố quyết định dẫn đến sự phát triển  thần kỳ của một số nước trong mấy thập kỷ vừa qua. Hiện tượng này, ở một quy mô nhỏ hơn, cũng có thể quan sát được ở Việt Nam, trong cái gọi là những "cơn sốt bất động sản" vừa qua, chẳng hạn. Những người nông dân đã sống ngàn đời nay trên mảnh đất mà lúa, hoa hay bất kỳ thứ hoa màu nào cũng không giúp họ thoát nổi cảnh nghèo. Vậy mà đột nhiên người ta bảo rằng một nghìn mét đất của họ là mười nhìn cây vàng! Họ đã trở thành tỉ phú trong chớp mắt, và cùng với họ, sức mua của xã hội cũng như tài sản quốc gia đã tăng gấp bội. Kinh tế tri thức cũng là một cách nhìn phiến diện khác, bởi tri thức chỉ là một trong những yếu tố tinh thần quyết định giá trị, và cách hiểu về kinh tế tri thức cũng mới chỉ giới hạn trong quá trình sản xuất - lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch vụ mà chưa thấy được vai trò của quá trình tiêu thụ, cũng là một quá trình sinh ra giá trị. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến điều đó trong một dịp khác. Phạm vi bài viết này chỉ cho phép chúng tôi nói thêm rằng ngay cả khái niệm nền kinh tế duy tâm cũng chỉ là một biểu hiện của nền nền văn minh mới, nền văn minh duy tâm, trong đó các yếu tố duy tâm đóng vai trò chủ đạo. 
Xu hướng duy tâm hoá nền kinh tế buộc những người đứng đầu các quốc gia phải thay đổi triệt để tư duy trong việc hoạch định các chiến lược phát triển. Bây giờ, sự phát triển của các quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các nguồn vốn hay tài nguyên mà còn - và chủ yếu - vào khả năng của các nhà lãnh đạo quốc gia trong việc tạo dựng và gìn giữ tâm lý thịnh vượng của dân chúng./.
Sưu tầm